Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại

#116 | Thế quyền sau khi thanh toán tiền bảo hiểm

#116 | Thế quyền sau khi thanh toán tiền bảo hiểm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Giữa S (Bên mua bảo hiểm) và Công ty A (Bên bảo hiểm) có hợp đồng bảo hiểm cho thiết bị bếp của một dự án theo hợp đồng ủy thác mua hàng hóa giữa S và BT (đối tác của Bên mua bảo hiểm). Thực tế, hàng hóa được bảo hiểm bị thiệt hại và Bên bảo hiểm đã thanh toán cho Bên mua bảo hiểm. Sau khi thanh toán tiền bảo hiểm, Bên bảo hiểm quay sang yêu cầu đối tác của bên mua bảo hiểm (là BT) bồi thường. Hội đồng Trọng tài xác định Bên bảo hiểm được thế quyền của Bên mua bảo hiểm. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, thường xuyên gặp trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, sau khi thanh toán tiền bảo hiểm (do sự kiện bảo hiểm đã xảy ra), thực hiện các quyền của bên mua bảo hiểm để yêu cầu bồi thường đối với người được cho rằng gây ra tổn thất. Ở đây, bên bảo hiểm thực hiện quyền yêu cầu của bên được bảo hiểm sau khi thực hiện trách nhiệm bảo hiểm và vụ việc trên thuộc trường hợp vừa nêu. Bởi lẽ, sau khi trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm xuất phát từ việc hàng hóa bảo hiểm bị hư hỏng, bên bảo hiểm quay sang yêu cầu bên chịu trách nhiệm về hàng hóa bồi thường thiệt hại. Đây thực chất là việc thế quyền (chuyển quyền từ bên mua bảo hiểm sang bên bảo hiểm sau khi thực hiện trách nhiệm bảo hiểm) và được pháp luật công nhận. Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận cho bên bảo hiểm thế vào quyền của Bên mua bảo hiểm. Cụ thể, “ Căn cứ Điều 577 Bộ luật dân sự năm 2005 ” theo đó “Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba hoàn trả khoản tiền mà mình đã trả” , Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “ Nguyên đơn là bên bảo hiểm cho S theo hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, Nguyên đơn đã thanh toán số tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm là S. Do đó, Nguyên đơn có quyền yêu cầu Bị đơn hoàn trả số tiền mà Nguyên đơn đã trả cho S (với điều kiện Nguyên đơn phải chứng minh BT có lỗi, gây thiệt hại cho S). Như vậy, căn cứ Điều 577 Bộ luật dân sự năm 2005, Nguyên đơn đã được S chuyển giao quyền yêu cầu Bị đơn thực hiện nghĩa vụ hoàn trả số tiền bảo hiểm mà Nguyên đơn đã trả cho S ”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài khẳng định “ Nguyên đơn đã được S chuyển giao quyền yêu cầu hoàn trả khoản tiền mà Nguyên đơn đã thanh toán cho S ”. Với nội dung trên, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng Bên bảo hiểm đương nhiên được thế quyền của Bên mua bảo hiểm và việc thế quyền này là trên cơ sở Điều 577 Bộ luật dân sự năm 2005. Nói cách khác, Hội đồng Trọng tài theo hướng đây là thế quyền tự động theo luật định và như vậy là phù hợp với Điều 577 Bộ luật dân sự năm 2005 nêu trên. Đối với các hoàn cảnh tương tự như trên, hiện nay các bên có thể vận dụng cơ chế thế quyền theo thỏa thuận được quy định tại khoản 1 Điều 365 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “ Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận " hoặc khoản 1 Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm: " 1. Trong trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm ". Do đó, các doanh nghiệp có hoàn cảnh như tình tiết nêu trên nên tận dụng cơ chế thế quyền theo thỏa thuận này để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Khi tiến hành chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận, các bên phải lưu ý thêm nghĩa vụ cung cấp thông tin vì Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này” (Điều 365) và “1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu và người thế quyền không chứng minh về tính xác thực của việc chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyền. 2. Trường hợp bên có nghĩa vụ do không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đã thực hiện nghĩa vụ đối với người chuyển giao quyền yêu cầu thì người thế quyền không được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình” (Điều 369).      

#115 | Nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất của bên mua bảo hiểm

#115 | Nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất của bên mua bảo hiểm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty T (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty B (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Sự kiện bảo hiểm đã xảy ra và Bên bảo hiểm cho rằng Bên mua bảo hiểm đã vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất. Hội đồng Trọng tài không phủ nhận nghĩa vụ của Bên mua bảo hiểm nhưng cho rằng Bên này không vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất. Bài học kinh nghiệm : Khi có người chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà mình gánh chịu, bên mua bảo hiểm có thể có tâm lý là sẽ không phòng ngừa, không hạn chế tổn thất (vì cho rằng đã có người gánh chịu). Tâm lý như vậy là không tốt cho người chịu trách nhiệm cũng như xã hội vì gây lãng phí. Vì vậy, điểm đ khoản 2 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Về nghĩa vụ phòng ngừa tổn thất, sau khi khẳng định “bên được bảo hiểm có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện ghi trong hợp đồng, các quy định của pháp luật có liên quan và thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại”, Điều 574 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “trong trường hợp bên được bảo hiểm có lỗi không thực hiện các biện pháp phòng ngừa thiệt hại đã ghi trong hợp đồng thì bên bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để bên được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn mà các biện pháp phòng ngừa vẫn không được thực hiện thì bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không được thực hiện”. Điều đó có nghĩa là chế tài cho vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa thiệt hại là “bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không được thực hiện”. Về việc không thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất, Luật kinh doanh bảo hiểm không cho biết chế tài cho việc vi phạm. Chúng ta đã thấy Bộ luật dân sự năm 2005 có đưa ra chế tài là chấm dứt hợp đồng bảo hiểm hay không bồi thường thiệt hại do người mua bảo hiểm không thực hiện biện pháp phòng ngừa. Quy định này có thể áp dụng cho việc vi phạm nghĩa vụ hạn chế tổn thất thông qua cơ chế áp dụng tương tự quy định của pháp luật được quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 [1] : Áp dụng chế tài vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa cho vi phạm nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Ngày nay, Bộ luật dân sự năm 2015 đã có quy định khái quát áp dụng cho tất cả quan hệ nghĩa vụ nên cũng áp dụng cho quan hệ bảo hiểm vì Điều 362 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”. Trong vụ việc nêu trên, Bên bảo hiểm cũng theo hướng này vì, sau khi cho rằng Bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ hạn chế tổn thất, Bên bảo hiểm xác định “bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không được thực hiện”. Vấn đề còn lại là phải xác định Bên mua bảo hiểm có vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa thiệt hại, hạn chế tổn thất hay không? Bên bảo hiểm cho rằng Bên mua bảo hiểm “hoàn thoàn không thực hiện một biện pháp nào để đề phòng, hạn chế tổn thất”, “đã vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm”. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “Nguyên đơn đã có thực hiện những biện pháp nhất định trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất đối với hàng hóa và việc này được Nhà giám định R xác nhận”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài đi đến kết luận “việc Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm và coi đó là một cơ sở để từ chối bảo hiểm cho Nguyên đơn theo Khoản 2 Điều 574 Bộ luật dân sự năm 2005 là không hợp lý. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài cho rằng tổn thất của Nguyên đơn ngày đêm 29 rạng sáng ngày 30/05/2013 thuộc phạm vi bảo hiểm và Bị đơn – Nhà bảo hiểm phải bồi thường tổn thất này cho Nguyên đơn theo đúng hợp đồng bảo hiểm mà các Bên đã giao kết”. Như vậy, không có việc vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa thiệt hại, nghĩa vụ hạn chế tổn thất từ phía người bị thiệt hại nên người bị thiệt hại được bồi thường tổn thất mà người bị thiệt hại đã gánh chịu. Từ vụ việc này, doanh nghiệp mua bảo hiểm biết rằng họ có nghĩa vụ phòng ngừa thiệt hại, có nghĩa vụ hạn chế tổn thất và khi họ đã có những biện pháp thích ứng nhưng thiệt hại vẫn diễn ra thì thiệt hại vẫn được bồi thường. Vụ việc cũng cho thấy nếu doanh nghiệp bị thiệt hại không có biện pháp phòng ngừa thiệt hại, hạn chế tổn thất thì thiệt hại đáng ra phòng ngừa được, đáng ra hạn chế được có nguy cơ sẽ không được bồi thường.    

#114 | Hợp đồng bảo hiểm không chấm dứt khi chậm thanh toán phí

#114 | Hợp đồng bảo hiểm không chấm dứt khi chậm thanh toán phí

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Theo hợp đồng, phí bảo hiểm được thanh toán thành ba kỳ và trong cả ba kỳ, người mua bảo hiểm đều chậm thanh toán. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp bảo hiểm (Bị đơn) cho rằng hợp đồng bảo hiểm đã chấm dứt trước ngày xảy ra sự cố được bảo hiểm xuất phát từ việc chậm thanh toán tiền bảo hiểm nên không thanh toán tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài theo hướng ngược lại. Bài học kinh nghiệm : Thông thường, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt và trách nhiệm bảo hiểm không phát sinh khi phí bảo hiểm không được đóng đúng hạn, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên mua được nợ phí bảo hiểm. Theo Khoản 1 Điều 15 về Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của Luật Kinh doanh bảo hiểm, trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi “Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm ”. Bên cạnh đó, Thông tư 194/2014/TT-BTC ngày 17/12/2014, cụ thể Điều 2 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 125/2012/TT-BTC quy định : "Trường hợp bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm theo thời hạn thanh toán phí bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ tự chấm dứt hiệu lực khi hết thời hạn thanh toán phí bảo hiểm”. Trên cơ sở quy định nêu trên, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt ở thời điểm không thanh toán phí bảo hiểm đến hạn và, trong vụ việc nêu trên, thực tế Bị đơn đã theo hướng đó để từ chối thanh toán tiền bảo hiểm sau khi sự cố được bảo hiểm đã xảy ra. Tuy nhiên, pháp luật về bảo hiểm còn có quy định cho phép giữ hợp đồng bảo hiểm mặc dù có việc chậm thanh toán phí bảo hiểm. Cụ thể, khoản 2 Điều 15 của Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định trách nhiệm bảo hiểm phát sinh trong trường hợp “Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm”. Khả năng phát sinh trách nhiệm bảo hiểm (tức hợp đồng bảo hiểm không chấm dứt) đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 32 Luật kinh doanh bảo hiểm theo đó “ hợp đồng bảo hiểm còn chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm, hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác ”. Như vậy, nếu có thỏa thuận về nợ phí bảo hiểm thì trách nhiệm bảo hiểm vẫn phát sinh trong trường hợp bên mua bảo hiểm chưa đóng đủ phí bảo hiểm và thực tế, trong vụ việc này, các bên đã có thỏa thuận về nợ phí bảo hiểm như Hội đồng Trọng tài đã khẳng định “ trong vụ tranh chấp này, các Bên có thỏa thuận về việc nợ phí tại Mục 32 của Nội dung các Điều khoản bổ sung kèm theo hợp đồng ”. Cụ thể, các bên thỏa thuận đóng phí bảo hiểm thành nhiều kỳ, theo đó số phí bảo hiểm kỳ 3 (20% tổng số phí bảo hiểm) sẽ được thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày ký kết hợp đồng (là ngày 01/03/2014). Từ đó, Hội đồng Trọng tài “ xác định thời hạn thanh toán phí bảo hiểm kỳ 3 là ngày 01/03/2015 ”. Thực tế, Mục 3 Điều 32 Nội dung các Điều khoản bổ sung trong quan hệ bảo hiểm quy định: “ Thời hạn nợ phí quá hạn tối đa là ba tháng kể từ ngày phát sinh nợ phí quá hạn” và Mục 3 Điều 32 quy định tiếp: “ Nếu quá thời hạn này hoặc nếu quá 10 ngày kể từ ngày hết hạn thanh toán phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm vẫn không cấp được bảng Xác nhận công nợ, Bảo hiểm X có quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm, Giấy chứng nhận bảo hiểm”. Trên cơ sở Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm theo đó “ Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng, thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm”, Hội đồng Trọng tài đã “ xác định thời điểm phía nhà bảo hiểm có quyền đơn phương hủy hợp đồng là vào ngày tiếp theo ngày 30/06/2015 (tức ngày 01/07/2015) chứ không phải ngày 10/04/2015 ” trong khi đó sự cố bảo hiểm xảy ra trước thời điểm này (tháng 04/2015). Bên cạnh đó, Hội đồng Trọng tài đã khẳng định phía bảo hiểm “ chưa từng có bất kỳ thông báo, động thái nào liên quan tới việc đơn phương hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm đã ký ”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “ Như vậy, tại thời điểm xảy ra sự cố ngày 18/04/2015, Hội đồng Trọng tài thấy có cơ sở để xác định ý chí của các Bị đơn vẫn coi hợp đồng bảo hiểm đã ký còn hiệu lực, cần được tiếp tục thực hiện qua việc thanh toán phí bảo hiểm kỳ 3 ”. Từ đó, “ Hội đồng Trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn buộc các nhà đồng bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường ”. Từ vụ việc trên, các doanh nghiệp có thể rút ra hai bài học đáng lưu ý sau đây: Thứ nhất , các bên được quyền thỏa thuận về nợ phí bảo hiểm (thông thường có lãi chậm trả) và việc thỏa thuận nợ phí bảo hiểm này sẽ cho phép hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực mặc dù phí bảo hiểm chưa thanh toán so với thời hạn đã thỏa thuận. Thứ hai , khi thỏa thuận về nợ phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cần quan tâm tới ngôn từ sử dụng trong thỏa thuận sao cho đủ rõ ràng để tránh trường hợp hợp đồng cần được giải thích và lúc đó được giải thích bất lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm như chúng ta đã thấy trong vụ việc nêu trên.  

#113 | Trường hợp chậm thanh toán phí bảo hiểm

#113 | Trường hợp chậm thanh toán phí bảo hiểm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty C (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty P (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Sau khi tàu của mình có sự cố, Bên mua bảo hiểm yêu cầu bồi thường nhưng Bên bảo hiểm từ chối với lý do rủi ro được bảo hiểm đã xảy ra vào thời điểm chưa thanh toán phí bảo hiểm. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài vẫn chấp nhận yêu cầu của Bên mua bảo hiểm, buộc Bên bảo hiểm bồi thường. Bài học kinh nghiệm : Trong quan hệ bảo hiểm, việc thanh toán phí bảo hiểm thường được triển khai theo kỳ (trong thời hạn bảo hiểm). Tuy nhiên, không hiếm trường hợp bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm chậm so với thời hạn quy định trong hợp đồng và câu hỏi đặt ra là việc chậm thanh toán phí bảo hiểm này tác động tới quyền lợi của các bên như thế nào? Trong vụ việc trên, các Bên ký hợp đồng bảo hiểm với 4 kỳ hạn thanh toán và, đối với kỳ hạn thứ tư, các Bên thống nhất thời điểm đến hạn thanh toán phí bảo hiểm của kỳ thanh toán thứ 4/4 là ngày 25/11/2012 (chủ nhật). Tại kỳ thanh toán này Bên bảo hiểm xuất hóa đơn VAT phí bảo hiểm vào ngày 23/11/2012, và gửi hóa đơn cho Bên mua bảo hiểm vào ngày 25/11/2012 (thứ sáu). Ngày 03/12/2012, Bên mua bảo hiểm nộp tiền phí bảo hiểm vào tài khoản của Bên bảo hiểm. Tuy nhiên, ngày 02/12/2012, tàu của Bên mua bảo hiểm bị sự cố trong hành trình từ Vũng Tàu đi Philippines. Bên bảo hiểm đã từ chối bồi thường bảo hiểm vì cho rằng rủi ro được bảo hiểm (tàu mắc cạn) đã xảy ra vào thời điểm Bên mua bảo hiểm chưa thanh toán phí bảo hiểm kỳ 4/4. Theo Hội đồng Trọng tài, “Bị đơn có căn cứ để từ chối bồi thường bảo hiểm, nếu chỉ viện dẫn các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm số C08/BHTB/04/03/10, như sau “ ...hiệu lực của bảo hiểm cũng tự động chấm dứt vào thời điểm xảy ra một trong những sự kiện như sau: ....NĐBH không thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn theo quy định tại khoản 4.4 dưới đây của hợp đồng bảo hiểm... ” (Điều 3.3 hợp đồng BHTT); “ Trường hợp NĐBH không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt hiệu lực bảo hiểm vào ngày kế tiếp ngày NĐBH phải đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận của hợp đồng bảo hiểm. Đồng thời, người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm cho những tổn thất phát sinh trong khoảng thời gian mà NBH chưa thanh toán đầy đủ phí bảo hiểm cho NBH ” (Điều 4.4.7 hợp đồng BHTT)”. Ngoài ra, Hội đồng Trọng tài còn cho rằng “Bị đơn cũng có thể từ chối bồi thường bảo hiểm căn cứ vào Điều 4.4.6 của hợp đồng BHTT quy định rằng “ Phí bảo hiểm được coi là thanh toán đầy đủ và đúng hạn khi tiền đã vào tài khoản của NBH , hoặc có xác nhận của Ngân hàng về việc chuyển trả phí bảo hiểm của NĐBH theo đúng thời hạn và số tiền ghi trên Thông báo thu phí và Giấy sửa đổi bổ sung nếu có ”. Trong trường hợp này, thực tế là tiền phí bảo hiểm do Nguyên đơn thanh toán vào tới tài khoản Ngân hàng của Bị đơn là ngày 03/12/2012, tức là sau ngày 02/12/2012 là ngày xảy ra sự cố mắc cạn của tàu”. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tại lại kết luận “Nguyên đơn được hưởng quyền bồi thường bảo hiểm thiệt hại xảy ra do rủi ro mắc cạn của tàu. Bị đơn có nghĩa vụ bồi thường bảo hiểm cho Nguyên đơn đối với các tổn thất phát sinh từ sự cố mắc cạn của tàu”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài quyết định “chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường bảo hiểm của Nguyên đơn đối với Bị đơn, buộc Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn”. Để đạt được kết quả trên, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào các yếu tố chính sau: Thứ nhất , “Bị đơn đã gửi thông báo hóa đơn phí bảo hiểm kỳ 4 chỉ 2 ngày, tức là vào ngày 23/12/2012, trước thời hạn phải thanh toán, là ngày 25/11/2012. Việc gửi thông báo hóa đơn phí bảo hiểm chậm như vậy - là một sự chậm trễ khác thường so với các kỳ thanh toán 1, 2 và 3 trước đây. Tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, hai Bên đều xác nhận rằng đối với các kỳ thanh toán trước đây của đơn bảo hiểm này, Bị đơn thường gửi hóa đơn phí bảo hiểm cho Nguyên đơn trong khoảng từ 1 tuần đến 10 ngày trước ngày đến hạn thanh toán”; Thứ hai , “việc Nguyên đơn chậm thanh toán phí bảo hiểm không nhằm mục trốn tránh nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm theo quy định của hợp đồng BHTT. Nguyên đơn trình bày rằng đã tiến hành thủ tục nội bộ cho việc thanh toán phí bảo hiểm kỳ 4/4 ngay vào ngày thứ Hai, 26/11/2012, tức là trước ngày 02/12/2012 - là ngày xảy ra sự kiện mắc cạn của tàu. Chứng cứ xác nhận điều này là: ngày 28/11/2012, Tổng Giám đốc (Nguyên đơn) đã ký phê duyệt đề nghị thanh toán phí bảo hiểm kỳ 4/4 cho đơn bảo hiểm thân tàu với giá trị là 123.453.000 VND, do Phòng dịch vụ và vận tải biển đề xuất. Hội đồng Trọng tài thấy rằng văn bản nội bộ này của Nguyên đơn thể hiện ý định thực hiện nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm cho tàu ngay vào thời điểm khi chưa xảy ra sự kiện rủi ro tàu mắc cạn. Điều này cho thấy Nguyên đơn không có ý định trốn tránh nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm theo quy định của hợp đồng BHTT”; Thứ ba , “khoản tiền phí bảo hiểm kỳ 4/4 của đơn bảo hiểm tàu mà Nguyên đơn đã nộp vào tài khoản của Bị đơn ngày 03/12/2012 - đã được Bị đơn chấp nhận. Hồ sơ của vụ việc này, cũng như qua trình bày của các Bên tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không thể hiện bất kỳ một thông tin, chứng cứ nào về việc Bị đơn không chấp nhận khoản tiền phí bảo hiểm kỳ 4/4 của đơn bảo hiểm cho tàu mà Nguyên đơn đã nộp vào ngày 03/12/2012. Hơn nữa, khoản tiền phí bảo hiểm kỳ 4/4 của đơn bảo hiểm tàu đã được Bị đơn đưa vào Bảng kê hóa đơn, Chứng từ hàng hóa dịch vụ bán ra kèm theo tờ khai thuế ngày 04/12/2012, áp dụng cho kỳ tính thuế là tháng 11/2012 . Điều này thể hiện rõ rằng phí bảo hiểm kỳ 4/4 của đơn bảo hiểm tàu đã được Bị đơn hạch toán vào doanh số bán hàng kỳ tháng 11/2012 , phù hợp với thời hạn thu phí bảo hiểm theo hợp đồng BHTT là ngày 25/11/2012. Như vậy, Bị đơn đã chấp nhận nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm kỳ 4/4 cho đơn bảo hiểm đối với tàu do Nguyên đơn thực hiện. Điều này, theo quy định của Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2005, đồng thời có nghĩa là Nguyên đơn phải được hưởng quyền được bồi thường bảo hiểm do đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm theo hợp đồng BHTT với Bị đơn”. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài như trên là thuyết phục, phù hợp với lẽ công bằng. Bởi lẽ, việc chậm thanh toán phí bảo hiểm trong tình huống như nêu trên chỉ mang tính kỹ thuật, ý chí của Bên mua bảo hiểm vẫn là thanh toán và ý chí của Bên bảo hiểm vẫn là chấp nhận việc thanh toán phí bảo hiểm. Đây là những điểm mà doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp mua bảo hiểm cần biết khi tham gia vào hoạt động bảo hiểm. Tuy nhiên, để tránh những tranh chấp không cần thiết, việc đóng phí bảo hiểm nên được tiến hành đúng tiến độ như đã quy định trong hợp đồng.  

#112 | Giá trị pháp lý của giám định tổn thất được bảo hiểm

#112 | Giá trị pháp lý của giám định tổn thất được bảo hiểm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty Q (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) và Công ty B (Bị đơn - Bên bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng các Bên không thống nhất về giá trị tổn thất nên đã phải tiến hành giám định. Giám định đơn phương của Bên bảo hiểm không được chấp nhận và giám định độc lập chỉ được chấp nhận một phần. Bài học kinh nghiệm : Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm khá phổ biến tại trọng tài. Trong thực tế, không hiếm trường hợp các bên tranh chấp với nhau về tổn thất được bảo hiểm và cần giám định. Câu hỏi đặt ra là kết quả giám định có giá trị ràng buộc không? Trong vụ việc trên, các Bên xác lập hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới theo đó Nguyên đơn mua bảo hiểm xe cơ giới với giá trị tham gia bảo hiểm là 1.245.000.000 VND, thời hạn bảo hiểm từ ngày 02/05/2012 đến ngày 01/05/2013. Ngày 18/07/2012, xe tải được bảo hiểm gặp tai nạn và tai nạn làm xe và toàn bộ hàng hóa bị thiệt hại. Ngày 10/08/2012, Bên bảo hiểm tiến hành lập Biên bản giám định thiệt hại xe cơ giới có sự chứng kiến của đại diện chủ xe. Về phía mình, Bên mua bảo hiểm yêu cầu Công ty HA để kiểm tra tình trạng xe. Sau đó hai Bên thống nhất cơ quan giám định độc lập thứ 3 là Trung tâm đăng kiểm H và cơ quan này kết luận: phần máy không phát hiện hư hỏng và các hệ thống tổng thành khác căn cứ theo giám định thiệt hại của Bên bảo hiểm. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định “có căn cứ xác định hai Bên tranh chấp đã đồng ý chọn Đăng kiểm H làm giám định viên độc lập có giá trị bắt buộc đối với hai Bên. Việc giám định được tiến hành 02 lần đều có sự chứng kiến của Nguyên đơn”. Về kết luận, “Tại thời điểm kiểm tra không phát hiện hư hỏng”, Hội đồng Trọng tài “công nhận kết quả giám định phần máy của cơ quan này”. Tuy nhiên, đối với các phần còn lại, theo Hội đồng Trọng tài, “Đăng Kiểm H lại công nhận kết quả giám định của Bị đơn là không khách quan và không phù hợp với thỏa thuận của Nguyên đơn và Bị đơn, trong khi lẽ ra Đăng Kiểm H phải giám định lại như các Bên đã thống nhất. Do đó, Hội đồng Trọng tài không công nhận kết luận này”. Phần trên cho thấy Hội đồng Trọng tài không chấp nhận kết quả giám định do một bên tiến hành khi các Bên có tranh chấp về tổn thất bảo hiểm. Hướng giải quyết như vậy là thuyết phục và doanh nghiệp nên biết việc này. Bởi lẽ, giám định do một bên tiến hành khó có thể đảm bảo tính khách quan. Còn đối với giám định độc lập do các Bên thỏa thuận, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận kết quả giám định khi giám định độc lập tiến hành giám định như các Bên thỏa thuận. Ở đây, phần giám định này “ràng buộc các bên”. Tuy nhiên, có phần kết quả giám định không được chấp nhận do lấy lại kết quả của giám định của một bên trước đây là không tiến hành giám định như yêu cầu của các Bên. Hướng giải quyết này cũng thuyết phục vì để giám định có giá trị pháp lý thì tổ chức giám định phải tiến hành giám định một cách độc lập và khách quan. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp bảo hiểm cũng như doanh nghiệp mua bảo hiểm cần lưu ý là giám định mang tính đơn phương (tiến hành từ một phía) không có giá trị pháp lý nếu có tranh chấp và cần có giám định độc lập. Về phía giám định độc lập, việc giám định cũng cần được tiến hành một cách độc lập, khách quan nếu không làm như vậy thì kết luận giám định cũng không có giá trị ràng buộc như chúng ta đã thấy trong vụ việc nêu trên.

#111 | Xác định rủi ro được bảo hiểm

#111 | Xác định rủi ro được bảo hiểm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty vận tải T (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm N (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Sau khi tàu của Nguyên đơn có sự cố, Bị đơn cho rằng sự cố này không được bảo hiểm nhưng Hội đồng Trọng tài theo hướng đây là rủi ro được bảo hiểm. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp Bên mua bảo hiểm cho rằng rủi ro đã xảy ra đối với mình và yêu cầu Bên bảo hiểm thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nhưng Bên bán bảo hiểm từ chối trách nhiệm với lý do không đủ điều kiện để bảo hiểm. Trong vụ việc trên, Nguyên đơn (Người được bảo hiểm) và Bị đơn (Người bảo hiểm) đã ký kết hợp đồng bảo hiểm thân tàu TB 05. Người được bảo hiểm đồng ý tham gia và Người bảo hiểm đồng ý cung cấp bảo hiểm thân tàu (vỏ tàu, máy móc, trang thiết bị) cho tàu TB 05 thuộc quyền quản lý của Người được bảo hiểm với điều kiện tàu phải đảm bảo an toàn đi biển theo đúng quy định hiện hành của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và Luật lệ, Tập quán Hàng hải quốc tế. Điều 5 của hợp đồng còn quy định “Trong mọi trường hợp, Người được bảo hiểm phải có trách nhiệm đối với con tàu để tàu luôn đảm bảo an toàn đi biển và chuyên chở hàng hóa theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam”. Thực tế, tàu bị sự cố tại Philipines và Bên mua bảo hiểm yêu cầu bồi thường. Bên bảo hiểm (Bị đơn) cho rằng yêu cầu đòi bồi thường tổn thất của Nguyên đơn là không có căn cứ pháp lý vì chủ tàu TB 05/Người quản lý trên bờ, Thuyền trưởng, Thuyền phó hai đã thiếu mẫn cán trong việc chuẩn bị, kiểm tra, tu chỉnh hải đồ để đảm bảo có hải đồ thích hợp và được cập nhật và Bảng thủy triều, khiến cho tàu đã không đủ khả năng đi biển trước và khi bắt đầu hành trình đến cảng Zamboanga, Philippines. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài cho rằng “rủi ro mắc cạn của tàu TB 05 do gặp sóng to, gió lớn làm trôi neo là rủi ro được bảo hiểm thuộc trường hợp tổn thất hay tổn hại của đối tượng bảo hiểm gây ra bởi Hiểm họa của biển, sông, hồ hoặc vùng nước có thể hoạt động được quy định tại Mục I phần Tóm tắt các điều khoản bảo hiểm của Đơn bảo hiểm. Rủi ro này hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật hàng hải Việt Nam cũng như khoản 1 Điều 55 Luật Bảo hiểm hàng hải Anh”. Liên quan đến quan điểm của Bị đơn theo đó tàu đã không đủ khả năng đi biển trước và khi bắt đầu hành trình, Hội đồng Trọng tài xét rằng “lý lẽ này của Bị đơn là không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận bởi hiểm họa của biển, sông, hồ là sự kiện khách quan mà Nguyên đơn không thể lường trước được cho dù trước và khi bắt đầu chuyến đi Nguyên đơn đã mẫn cán để tàu có đủ khả năng đi biển”. Như vậy, bất đồng về việc xác định sự kiện tổn thất có được bảo hiểm hay không đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận dựa vào nhiều yếu tố. Đối với hợp đồng bảo hiểm, các bên thường xuyên có tranh chấp về sự kiện tổn thất có được bảo hiểm hay không. Để tránh những tranh chấp không cần thiết, các bên nên chi tiết hóa trong hợp đồng những sự kiện được bảo hiểm (cũng như sự kiện không được bảo hiểm) cũng như thu thập những chứng cứ cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình khi có tranh chấp.  

#110 | Công ty thỏa thuận mua lại cổ phần đã bán

#110 | Công ty thỏa thuận mua lại cổ phần đã bán

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký hợp đồng đăng ký và mua cổ phần. Sau đó hai bên có tranh chấp và Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn mua lại cổ phần mà Bị đơn và một số cổ đông đã chuyển nhượng cho Nguyên đơn. Bị đơn cho rằng yêu cầu của Nguyên đơn buộc Bị đơn “phải có nghĩa vụ thực hiện là không có cơ sở”, Bị đơn “không có nghĩa vụ mua lại cổ phần chào bán của Nguyên đơn”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã quyết định “buộc Bị đơn mua lại 4.004.000 cổ phần mà Nguyên đơn đang có tại Bị đơn”. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp Công ty bán cổ phần và một vấn đề phát sinh trong thực tiễn liên quan đến nghĩa vụ mua lại cổ phần của Công ty. Từ vụ tranh chấp trên, chúng ta thấy có hai vấn đề khá quan trọng đáng lưu ý liên quan đến việc công ty mua lại cổ phần đã bán cho người khác. * Cơ sở để khẳng định bên bán có nghĩa vụ mua lại cổ phần Để có kết quả nêu trên, Hội đồng Trọng tài xác định đã có thỏa thuận theo đó Bị đơn cam kết mua lại cổ phần đã chuyển nhượng cho Nguyên đơn. Cụ thể, trên cơ sở Điều 8.2c hợp đồng theo đó “ Các cổ đông lớn và Công ty xác nhận rằng, theo các quy định tại Khoản 8, Các cổ đông lớn và Công ty sẽ chịu trách nhiệm riêng rẽ và liên đới đối với việc mua lại các cổ phần do Bên mua nắm giữ trong Công ty theo giá quy định tại Khoản 8.2.b theo yêu cầu của Bên mua ”, Bị đơn cho rằng “trách nhiệm” trong điều khoản vừa nêu không đồng nghĩa với “nghĩa vụ” mua lại các cổ phần mà là trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự theo Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là Điều 351 Bộ luật dân sự năm 2015): “ Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền ”. Tuy nhiên, dựa vào khái niệm “trách nhiệm” được nêu trong Bộ luật dân sự cũng như trong Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài xác định từ khái niệm “trách nhiệm” “không chỉ được sử dụng với ý nghĩa của Điều 302 Bộ luật dân sự, mà còn được sử dụng với ý nghĩa là một nghĩa vụ dân sự, mà một chủ thể phải thực hiện cho một chủ thể khác”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, các Bên sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm” nhưng không nói đến một nghĩa vụ nào ngay trước đó và cũng không nói đến việc vi phạm nghĩa vụ này trước phần “trách nhiệm”. Điều đó cho phép Hội đồng Trọng tài hiểu rằng thuật ngữ “trách nhiệm” không được các Bên sử dụng trong ý nghĩa thứ nhất như đã phân tích ở trên, và thuật ngữ này được sử dụng để quy định một nghĩa vụ của người được xác định là có “trách nhiệm”, theo ý nghĩa thứ hai. Nói cách khác, nội dung điều khoản 8.2c đã ghi nhận một “trách nhiệm”, và trách nhiệm này đồng nghĩa với một “nghĩa vụ”. Trong vụ việc trên, các bên đã không thực sự rõ ràng trong việc khẳng định Bị đơn có nghĩa vụ mua lại cổ phần mà Nguyên đơn đã nhận chuyển nhượng mặc dù giữa các bên đã có một hợp đồng rất chi tiết về việc chuyển nhượng. Để không gặp khó khăn trong việc xác định có hay không nghĩa vụ mua lại cổ phần trong trường hợp công ty bán cổ phần, doanh nghiệp nên thận trọng trong việc thiết kế các điều khoản trong hợp đồng, không nên dùng những từ tối nghĩa như trong vụ việc nêu trên. * Giá trị ràng buộc của thỏa thuận mua lại cổ phần Ở vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài đã xác định trong hợp đồng có tranh chấp Bị đơn có nghĩa vụ mua lại cổ phần đã bán cho Nguyên đơn. Điều đó có nghĩa là giữa các bên đã có thỏa thuận theo đó Công ty có nghĩa vụ mua lại cổ phần mà Công ty đã bán. Vấn đề tiếp theo cần quan tâm là thỏa thuận này có hợp pháp hay không? Về phía mình, Bị đơn cho rằng “theo Luật Doanh nghiệp, Công ty cổ phần chỉ được mua lại cổ phần do chính công ty đã phát hành khi: a) mua lại theo yêu cầu của cổ đông (Điều 90); hoặc b) mua lại cổ phần theo quyết định của công ty (Điều 91)”. Và, vẫn theo Bị đơn, 2 yêu cầu này đều không thỏa mãn nên Bị đơn không có nghĩa vụ và khả năng mua lại các cổ phần mà Nguyên đơn chào bán lại. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài cho rằng, theo khoản 1 Điều 80 Luật Doanh nghiệp năm 2005, một trong những “Nghĩa vụ của cổ đông phổ thông” là “không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần”. Với quy định này, cổ đông được rút vốn trong “trường hợp được công ty mua lại cổ phần”. Tiếp theo đó, Luật Doanh nghiệp cho phép Công ty mua lại cổ phần của mình theo “yêu cầu của cổ đông” tại Điều 90 và theo “quyết định của Công ty” tại Điều 91. Luật này không quy định Công ty chỉ được mua lại cổ phần của mình theo điều kiện của các điều khoản nêu trên. Như vậy, Luật Doanh nghiệp xác định cổ đông được rút vốn trong “trường hợp được công ty mua lại cổ phần” tại Điều 80, nhưng không hạn chế Công ty chỉ được mua lại cổ phần theo Điều 90 (xuất phát từ phía cổ đông) và Điều 91 (xuất phát từ phía Công ty). Do vậy, việc Bị đơn khẳng định “Công ty cổ phần chỉ được mua lại cổ phần do chính công ty đã phát hành khi: a) mua lại theo yêu cầu của cổ đông (Điều 90); hoặc b) mua lại cổ phần theo quyết định của công ty (Điều 91)” chỉ mang tính suy diễn. Từ đó, Hội đồng Trọng tài cho rằng việc áp dụng Điều 90 và Điều 91 để xem xét vụ việc đang tranh chấp là không phù hợp. Bởi lẽ, nghĩa vụ mua lại cổ phần trong hợp đồng đang có tranh chấp xuất phát từ thỏa thuận của các Bên, trong khi đó, các điều khoản của Luật Doanh nghiệp do Bị đơn viện dẫn lại quy định nội dung việc mua lại cổ phần của công ty theo yêu cầu của cổ đông và theo quyết định của công ty. Cuối cùng, trên cơ sở Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015) về Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận theo đó “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” và “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”, Hội đồng Trọng tài xét rằng thỏa thuận về nghĩa vụ mua lại cổ phần của các Bên trong hợp đồng không vi phạm điều cấm nào của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội nên “có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên”. Từ vụ việc trên, chúng ta thấy pháp luật về doanh nghiệp không cấm công ty mua lại cổ phần của mình sau khi bán ra và nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận buộc phải ghi nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận loại này. Do đó, khi bán cổ phần, công ty nên biết điều này để xác lập thỏa thuận tương ứng với lợi ích của mình.  

#109 | Quyền được hưởng thù lao của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistic

#109 | Quyền được hưởng thù lao của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistic

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty M (Nguyên đơn) và Công ty L (Bị đơn) xác lập hợp đồng dịch vụ giao nhận và vận chuyển hàng hóa theo đó Bị đơn thuê dịch vụ vận chuyển của Nguyên đơn để vận chuyển hàng đến các cảng trên thế giới. Nguyên đơn đã thực hiện các yêu cầu vận chuyển của Bị đơn nhưng Bị đơn vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài buộc Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn. Bài học kinh nghiệm : Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao (Điều 233 Luật Thương mại năm 2005). Trong vụ việc trên, Nguyên đơn đã thực hiện các công việc liên quan đến vận chuyển hàng hóa của Bị đơn nhưng Bị đơn chưa thanh toán. Theo Hội đồng Trọng tài, “thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quyền hưởng thù lao dịch vụ và chi phí hợp lý khác. Như vậy, do Nguyên đơn đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng nên Nguyên đơn được quyền hưởng phí dịch vụ như đã thỏa thuận tại Điều 5 của hợp đồng” và “khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh toán”. Như vậy, theo Hội đồng Trọng tài, đây là quan hệ phát sinh từ dịch vụ logistic và doanh nghiệp thực hiện dịch vụ được hưởng thù lao dịch vụ. Hướng giải quyết như vậy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 235 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền và nghĩa vụ sau đây: Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác”. Ở đây, quyền được hưởng thù lao của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics đồng nghĩa với nghĩa vụ trả thù lao của bên thuê dịch vụ. Đó là điểm doanh nghiệp thuê dịch vụ logistic cần biết và phải thực hiện đúng thời hạn, nếu không, như Hội đồng Trọng tài đã quyết định, Bị đơn phải thanh toán “tiền lãi phát sinh đối với nợ gốc do chậm thanh toán” và “phải chịu toàn bộ phí trọng tài” cho Nguyên đơn.  

#108 | Xác lập hối phiếu đòi nợ

#108 | Xác lập hối phiếu đòi nợ

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Nguyên đơn, Bị đơn đã ký hợp đồng để mua hạt điều. Do vấn đề chất lượng nên Nguyên đơn và Bị đơn hủy ba hợp đồng chưa hoàn thành và xử lý hệ quả bằng hối phiếu đòi nợ. Khi có tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định hối phiếu đòi nợ đã không được xác lập một cách hợp lệ. Bài học kinh nghiệm :  Hối phiếu đòi nợ là một công cụ chuyển nhượng được ghi nhận trong Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005. Theo Luật này, “ Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng ” (khoản 2 Điều 4). Ở đây, chúng ta có “ người ký phát ” và người này được xác định “ là người lập và ký phát hành hối phiếu đòi nợ ” (khoản 5 Điều 4), “ người bị ký phát ” và người này được xác định “ là người có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ ”. Để tồn tại hối phiếu đòi nợ, chúng ta có một quy trình xác lập hợp pháp để bảo vệ quyền lợi của mình và vụ việc trên cho chúng ta cơ hội để hiểu rõ quy trình xác lập. Trên cơ sở các quy định nêu trên, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “ căn cứ vào quá trình phát hành hối phiếu đòi nợ nêu trên, Hội đồng Trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn gửi dự thảo hối phiếu đòi nợ để trống các thông tin, yêu cầu Bị đơn ký chấp nhận, gửi lại Nguyên đơn; sau đó Nguyên đơn bổ sung ngày ký phát, thời hạn thanh toán và ký phát hối phiếu đòi nợ là không phù hợp với quy định của khoản 2 Điều 4 Luật Các công cụ chuyển nhượng ”. Ở đây, vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “ Hối phiếu đòi nợ đã không được lập và ký phát hành bởi Nguyên đơn. Nguyên đơn đã gửi dự thảo hối phiếu qua email cho Bị đơn, để trống ngày ký phát, thời điểm thanh toán và chữ ký của bên ký phát. Bị đơn in ra và đóng dấu rồi gửi lại cho Nguyên đơn. Nguyên đơn là bên sau cùng ký và tự mình ghi các thông tin quyết định đến giá trị của hối phiếu đòi nợ như: Ngày ký phát, thời điểm thanh toán và chữ ký của người ký phát ”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định “ cách phát hành như vậy là không đúng theo quy định của pháp luật. Người bị ký phát không thể ký trước người ký phát mà không biết khi nào mình phải thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ. Như vậy vô hình chung giữa các Bên không có thỏa thuận nhận nợ trước lúc ký phát (thiếu thời điểm thanh toán). Nếu Nguyên đơn cho rằng Bị đơn là người ký phát (mà thực tế không phải vậy), thì cách này chỉ phù hợp đối với hối phiếu nhận nợ. Tuy nhiên, trường hợp xảy ra tranh chấp lại là hối phiếu đòi nợ. Do đó, việc phát hành hối phiếu đòi nợ không phù hợp ”. Nội dung trên đã cho thấy quy trình xác lập một hối phiếu đòi nợ và quy trình này đã không được các bên tuân thủ nên đã dẫn đến hệ quả là “ Hội đồng Trọng tài không công nhận nghĩa vụ thanh toán của Bị đơn theo hối phiếu đòi nợ, nên bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn ”. Do đó, khi doanh nghiệp muốn sử dụng hối phiếu đòi nợ , doanh nghiệp cần xem xét quy trình xác lập và thực hiện theo đúng quy trình.

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI